Bệnh crohn là gì? Các công bố khoa học về Bệnh crohn
Bệnh Crohn là một loại bệnh mãn tính tự miễn do hệ thống miễn dịch tấn công phần ruột non. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đế...
Bệnh Crohn là một loại bệnh mãn tính tự miễn do hệ thống miễn dịch tấn công phần ruột non. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đến hậu quảng. Triệu chứng phổ biến của bệnh Crohn bao gồm đau bụng, tiêu chảy, mệt mỏi, giảm cân, mất sức khỏe và các vấn đề tiêu hóa khác. Bệnh Crohn không thể chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng thuốc, chế độ ăn uống và các biện pháp điều trị khác.
Bệnh Crohn là một loại viêm nhiễm mãn tính tự miễn trong hệ tiêu hóa, nhưng cụ thể nó ảnh hưởng đến ruột non. Bệnh này được xem là một loại bệnh viêm nhiễm ruột đại tràng, nhưng có thể tồn tại ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đến hậu quảng. Bệnh Crohn thường xuyên liên quan đến sự viêm loét và tổn thương vào tường ruột non, gây ra các triệu chứng và biến chứng khác nhau.
Triệu chứng chính của bệnh Crohn bao gồm:
1. Đau bụng: Thường là một cơn đau tiếp xúc bên trái hay ở bên phải bụng dưới, nhưng nó có thể xuất hiện ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa.
2. Tiêu chảy: Thường xuyên tiêu chảy có thể có máu hoặc nhầy màu.
3. Mệt mỏi: Do việc cơ thể không thể hấp thụ đủ chất dinh dưỡng từ thức ăn.
4. Giảm cân: Do mất chất dinh dưỡng và áp lực lên cơ thể.
5. Rối loạn tiêu hóa: Bao gồm buồn nôn, nôn mửa, khó tiêu, và đau khi đi tiểu hay hiện tượng "đại tiện trẩu".
6. Tăng sự nhạy cảm đối với thức ăn: Có thể gây tiêu chảy hoặc đau bụng khi tiêu thụ một số loại thực phẩm.
Bệnh Crohn không có nguyên nhân rõ ràng, nhưng có một số yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc bệnh. Điều này bao gồm di truyền, tiến trình miễn dịch không cân bằng, tác nhân môi trường và tác nhân vi khuẩn.
Bệnh Crohn không có phương pháp chữa trị hoàn toàn, nhưng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng các loại thuốc chống viêm, đặc biệt là kháng viêm tự miễn và immunosuppressants. Chế độ ăn uống cũng rất quan trọng, và các biện pháp này có thể bao gồm tránh ăn một số loại thức ăn có thể kích thích viêm nhiễm, duy trì một khẩu phần ăn giàu chất xơ và uống đủ nước. Nếu cần thiết, phẫu thuật cũng có thể được thực hiện để loại bỏ các phần ruột bị tổn thương nặng hoặc để giảm các triệu chứng không thể kiểm soát bằng cách nào khác.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh crohn":
Bài báo này là bài thứ hai trong số hai bài công bố liên quan đến tổng hợp đồng thuận dựa trên bằng chứng của Tổ chức Bệnh Crohn và Viêm ruột châu Âu [ECCO] về chẩn đoán và quản lý bệnh Crohn [CD] và đề cập đến quản lý phẫu thuật bệnh CD cũng như các tình huống đặc biệt bao gồm quản lý bệnh CD vùng hậu môn và các biểu hiện ngoài ruột. Các phương pháp chẩn đoán và quản lý y tế bệnh CD của tổng hợp đồng thuận ECCO được đề cập trong bài báo đầu tiên [Gomollon et al. JCC 2016].
Để định lượng, thông qua đánh giá hệ thống, dịch tễ học và lịch sử tự nhiên của bệnh Crohn ở Bắc Mỹ.
Các bài báo được chọn bao gồm: (i) mẫu bệnh nhân dựa trên dân số được theo dõi từ thời điểm chẩn đoán; và (ii) tiêu chí chẩn đoán khách quan cho bệnh. Các nghiên cứu về lịch sử tự nhiên của bệnh Crohn cũng cần có đủ theo dõi.
Đối với các nghiên cứu tỷ lệ mắc, dữ liệu về tỷ lệ mắc, tỷ lệ xảy ra, giới tính và độ tuổi tại thời điểm chẩn đoán đã được trích xuất. Đối với các nghiên cứu về lịch sử tự nhiên, dữ liệu về hoạt động của bệnh, việc sử dụng thuốc và phẫu thuật đã được trích xuất.
Tỷ lệ mắc bệnh Crohn ở Bắc Mỹ dao động từ 26,0 đến 198,5 trường hợp trên 100.000 người. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 3,1 đến 14,6 trường hợp trên 100.000 người-năm. Hầu hết bệnh nhân có diễn biến bệnh mãn tính gián đoạn, trong khi 13% có diễn biến bệnh không ngừng và 10% có thời gian thuyên giảm kéo dài. Ít hơn một nửa cần corticosteroid tại bất kỳ thời điểm nào. Trong bất kỳ năm nào, khoảng 10% được điều trị bằng corticosteroid và 30% được điều trị bằng 5-aminosalicylate. Lên đến 57% bệnh nhân cần ít nhất một phẫu thuật cắt bỏ.
Nghiên cứu nhằm điều tra mối liên hệ giữa các đa hình gen của yếu tố điều hòa interferon 5 (
DNA genomic được chiết xuất từ các mẫu máu thu thập từ 91 bệnh nhân
Đ allele
Các đa hình gen
Tự dị hóa hoạt động như cơ chế phân hủy nội bào chính, giúp vận chuyển các bào quan bị hư hại và protein tự bào chất đến không bào lysosome để phân hủy. Bệnh Crohn, một rối loạn viêm mãn tính không rõ nguyên nhân của đường tiêu hóa, thể hiện ở nhiều vùng khác nhau của hệ thống tiêu hóa. Nghiên cứu gần đây cho thấy việc điều chỉnh tự dị hóa có thể là một hướng đi mới trong điều trị bệnh Crohn, và một số chất điều chỉnh tự dị hóa phân tử nhỏ đầy hứa hẹn đã được báo cáo như các lựa chọn điều trị. Trong bài đánh giá này, chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết về cách các đột biến trong các gen liên quan đến tự dị hóa hoạt động trong bệnh Crohn và tóm tắt các tác động điều chỉnh lên tự dị hóa của các loại thuốc phân tử nhỏ hiện đang được sử dụng để điều trị bệnh Crohn. Hơn nữa, chúng tôi cũng sẽ đi sâu vào tiềm năng điều trị của các tác nhân kích thích tự dị hóa phân tử nhỏ đối với bệnh Crohn, nhấn mạnh triển vọng phát triển trong lĩnh vực này. Chúng tôi nhằm mục đích làm nổi bật tầm quan trọng của việc điều chỉnh tự dị hóa trong bệnh Crohn, với hy vọng đóng góp vào sự phát triển của các phương pháp điều trị hiệu quả hơn có thể giảm bớt đau khổ của bệnh nhân và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.
Thông tin nền & Mục tiêu
Bệnh Crohn (CD) là một bệnh viêm có liên quan đến miễn dịch trong ống tiêu hóa. Về lý thuyết, việc xóa bỏ miễn dịch sau đó bằng cách ghép tế bào gốc huyết học tự thân (HSCT) có thể dẫn đến sự thuyên giảm bằng cách tái tạo lại một hệ thống miễn dịch mới.
Phương pháp
Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu giai đoạn I về HSCT trên 12 bệnh nhân mắc CD nặng. Các ứng viên có độ tuổi dưới 60 với chỉ số hoạt động bệnh Crohn (CDAI) từ 250–400 mặc dù đã điều trị thông thường bao gồm infliximab. Tế bào gốc từ máu ngoại vi được kích thích bằng cyclophosphamid và yếu tố kích thích tạo bạch cầu (G-CSF) và được làm giàu CD34+. Chế độ điều trị làm xóa bỏ miễn dịch bao gồm 200mg/kg cyclophosphamid và 90mg/kg globulin kháng tế bào lympho ngựa.
Kết quả
Thủ tục này được dung nạp tốt với những biến chứng giảm bạch cầu, sốt do giảm bạch cầu, và sốt, tiêu chảy, chán ăn, buồn nôn, nôn liên quan đến bệnh. Thời gian trung bình để bạch cầu trung tính và tiểu cầu bám dính là 9.5 ngày (phạm vi 8–11) và 9 ngày (phạm vi 9–18), tương ứng. Số lượng tế bào CD34+ và CD3+ được truyền vào lần lượt là 5.64 x 106/kg (phạm vi 1.73–9.93) và 0.59 x 104/kg (phạm vi 0.3–3.09). CDAI ban đầu trung bình là 291 (phạm vi 250–358). Các triệu chứng và CDAI đã cải thiện đáng kể (hình 1), và các phát hiện qua hình ảnh và nội soi đại tràng đã cải thiện dần theo tháng và năm sau HSCT. Mười trên mười hai bệnh nhân đã vào được trạng thái thuyên giảm kéo dài được xác định bởi CDAI ≤ 100. Sau thời gian theo dõi trung bình 17.5 tháng (phạm vi 6–37), chỉ có một bệnh nhân phát triển bệnh Crohn hoạt động trở lại sau 15 tháng kể từ khi ghép.
Kết luận
Ghép HSCT tự thân có thể được thực hiện một cách an toàn và có tác động tích cực rõ rệt đến hoạt động của CD. Cần có các nghiên cứu ngẫu nhiên để xác nhận tính hiệu quả của liệu pháp này.
Hình Hình
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5