Bệnh crohn là gì? Các công bố khoa học về Bệnh crohn

Bệnh Crohn là một loại bệnh mãn tính tự miễn do hệ thống miễn dịch tấn công phần ruột non. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đế...

Bệnh Crohn là một loại bệnh mãn tính tự miễn do hệ thống miễn dịch tấn công phần ruột non. Bệnh này có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đến hậu quảng. Triệu chứng phổ biến của bệnh Crohn bao gồm đau bụng, tiêu chảy, mệt mỏi, giảm cân, mất sức khỏe và các vấn đề tiêu hóa khác. Bệnh Crohn không thể chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng thuốc, chế độ ăn uống và các biện pháp điều trị khác.
Bệnh Crohn là một loại viêm nhiễm mãn tính tự miễn trong hệ tiêu hóa, nhưng cụ thể nó ảnh hưởng đến ruột non. Bệnh này được xem là một loại bệnh viêm nhiễm ruột đại tràng, nhưng có thể tồn tại ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, từ miệng đến hậu quảng. Bệnh Crohn thường xuyên liên quan đến sự viêm loét và tổn thương vào tường ruột non, gây ra các triệu chứng và biến chứng khác nhau.

Triệu chứng chính của bệnh Crohn bao gồm:

1. Đau bụng: Thường là một cơn đau tiếp xúc bên trái hay ở bên phải bụng dưới, nhưng nó có thể xuất hiện ở bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa.

2. Tiêu chảy: Thường xuyên tiêu chảy có thể có máu hoặc nhầy màu.

3. Mệt mỏi: Do việc cơ thể không thể hấp thụ đủ chất dinh dưỡng từ thức ăn.

4. Giảm cân: Do mất chất dinh dưỡng và áp lực lên cơ thể.

5. Rối loạn tiêu hóa: Bao gồm buồn nôn, nôn mửa, khó tiêu, và đau khi đi tiểu hay hiện tượng "đại tiện trẩu".

6. Tăng sự nhạy cảm đối với thức ăn: Có thể gây tiêu chảy hoặc đau bụng khi tiêu thụ một số loại thực phẩm.

Bệnh Crohn không có nguyên nhân rõ ràng, nhưng có một số yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc bệnh. Điều này bao gồm di truyền, tiến trình miễn dịch không cân bằng, tác nhân môi trường và tác nhân vi khuẩn.

Bệnh Crohn không có phương pháp chữa trị hoàn toàn, nhưng có thể được kiểm soát bằng cách sử dụng các loại thuốc chống viêm, đặc biệt là kháng viêm tự miễn và immunosuppressants. Chế độ ăn uống cũng rất quan trọng, và các biện pháp này có thể bao gồm tránh ăn một số loại thức ăn có thể kích thích viêm nhiễm, duy trì một khẩu phần ăn giàu chất xơ và uống đủ nước. Nếu cần thiết, phẫu thuật cũng có thể được thực hiện để loại bỏ các phần ruột bị tổn thương nặng hoặc để giảm các triệu chứng không thể kiểm soát bằng cách nào khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh crohn":

Tổng hợp đồng thuận dựa trên bằng chứng châu Âu về chẩn đoán và quản lý bệnh Crohn năm 2016: Phần 2: Quản lý phẫu thuật và các tình huống đặc biệt Dịch bởi AI
Journal of Crohn's and Colitis - Tập 11 Số 2 - Trang 135-149 - 2017
Tóm tắt

Bài báo này là bài thứ hai trong số hai bài công bố liên quan đến tổng hợp đồng thuận dựa trên bằng chứng của Tổ chức Bệnh Crohn và Viêm ruột châu Âu [ECCO] về chẩn đoán và quản lý bệnh Crohn [CD] và đề cập đến quản lý phẫu thuật bệnh CD cũng như các tình huống đặc biệt bao gồm quản lý bệnh CD vùng hậu môn và các biểu hiện ngoài ruột. Các phương pháp chẩn đoán và quản lý y tế bệnh CD của tổng hợp đồng thuận ECCO được đề cập trong bài báo đầu tiên [Gomollon et al. JCC 2016].

Dịch tễ học và lịch sử tự nhiên của bệnh Crohn ở các nhóm bệnh nhân dựa trên dân số từ Bắc Mỹ: một đánh giá hệ thống Dịch bởi AI
Alimentary Pharmacology and Therapeutics - Tập 16 Số 1 - Trang 51-60 - 2002
Mục tiêu:

Để định lượng, thông qua đánh giá hệ thống, dịch tễ học và lịch sử tự nhiên của bệnh Crohn ở Bắc Mỹ.

Phương pháp:

Các bài báo được chọn bao gồm: (i) mẫu bệnh nhân dựa trên dân số được theo dõi từ thời điểm chẩn đoán; và (ii) tiêu chí chẩn đoán khách quan cho bệnh. Các nghiên cứu về lịch sử tự nhiên của bệnh Crohn cũng cần có đủ theo dõi.

Thu thập và phân tích dữ liệu:

Đối với các nghiên cứu tỷ lệ mắc, dữ liệu về tỷ lệ mắc, tỷ lệ xảy ra, giới tính và độ tuổi tại thời điểm chẩn đoán đã được trích xuất. Đối với các nghiên cứu về lịch sử tự nhiên, dữ liệu về hoạt động của bệnh, việc sử dụng thuốc và phẫu thuật đã được trích xuất.

Kết quả chính:

Tỷ lệ mắc bệnh Crohn ở Bắc Mỹ dao động từ 26,0 đến 198,5 trường hợp trên 100.000 người. Tỷ lệ mắc bệnh dao động từ 3,1 đến 14,6 trường hợp trên 100.000 người-năm. Hầu hết bệnh nhân có diễn biến bệnh mãn tính gián đoạn, trong khi 13% có diễn biến bệnh không ngừng và 10% có thời gian thuyên giảm kéo dài. Ít hơn một nửa cần corticosteroid tại bất kỳ thời điểm nào. Trong bất kỳ năm nào, khoảng 10% được điều trị bằng corticosteroid và 30% được điều trị bằng 5-aminosalicylate. Lên đến 57% bệnh nhân cần ít nhất một phẫu thuật cắt bỏ.

Tioguanine ở bệnh nhân bệnh Crohn không dung nạp hoặc kháng azathioprine/mercaptopurine Dịch bởi AI
Alimentary Pharmacology and Therapeutics - Tập 18 Số 4 - Trang 401-408 - 2003
Tóm tắt

Thông tin nền:  Tioguanine (TG) là một chất đối kháng chuyển hóa, có thể được coi là một lựa chọn thay thế cho azathioprine (AZA)/mercaptopurine (MP) ở những bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột.

Mục tiêu : Đánh giá độ dung nạp và hiệu quả của TG ở những bệnh nhân mắc bệnh Crohn, không dung nạp hoặc kháng lại AZA/MP.

Phương pháp : Một nghiên cứu mở, có tính chất tiềm năng đã được thực hiện trên những bệnh nhân mắc bệnh Crohn được điều trị bằng TG. Không dung nạp AZA/MP được định nghĩa là một phản ứng xảy ra trong vòng 1 tháng sau khi bắt đầu sử dụng AZA/MP, bao gồm viêm tụy, đau bụng, sốt, đau khớp, đau cơ, phát ban da, mệt mỏi, rụng tóc, viêm gan và không dung nạp tiêu hóa. Kháng lại AZA/MP được định nghĩa là sự tiếp tục hoạt động bệnh lý sau ít nhất 3 tháng trị liệu với AZA/MP.

Kết quả : Bốn mươi chín bệnh nhân mắc bệnh Crohn (36 nữ, 13 nam; không dung nạp: n = 39; kháng: n = 10) đã được điều trị bằng TG (20 mg/ngày). Viêm tụy lâm sàng không tái phát dưới TG. Năm bệnh nhân (10%) phải ngừng sử dụng TG do phản ứng không dung nạp quan sát được trong khoảng 13-21 ngày sau khi bắt đầu TG. Không có tác dụng phụ về huyết học nào được ghi nhận dưới TG. Xác suất đạt được sự thuyên giảm lâm sàng mà không cần corticosteroid hoặc infliximab ở tháng 6 và 12 lần lượt là 46% và 79%, trong số 40 bệnh nhân có hoạt động bệnh tại thời điểm bắt đầu. Xác suất tái phát lâm sàng trong quá trình điều trị duy trì TG ở tháng 6 và 12 lần lượt là 29% và 53%, trong số 28 bệnh nhân đang trong giai đoạn thuyên giảm tại thời điểm bắt đầu hoặc đã đạt được sự thuyên giảm với TG.

Kết luận : TG là một điều trị thay thế có khả năng ở bệnh nhân bệnh Crohn không dung nạp (đặc biệt là do viêm tụy) hoặc kháng lại AZA/MP.

Mối liên hệ giữa các đa hình gen trong gene yếu tố điều hòa interferon 5 (IRF5) và bệnh Crohn ở bệnh nhân Malaysia Dịch bởi AI
Journal of Digestive Diseases - Tập 16 Số 4 - Trang 205-216 - 2015
Mục tiêu

Nghiên cứu nhằm điều tra mối liên hệ giữa các đa hình gen của yếu tố điều hòa interferon 5 (IRF5) và sự khởi phát của bệnh Crohn (CD) ở một nhóm nghiên cứu tại Malaysia.

Phương pháp

DNA genomic được chiết xuất từ các mẫu máu thu thập từ 91 bệnh nhân CD và 100 cá nhân khỏe mạnh thông qua phương pháp chiết xuất phenol-chloroform truyền thống. Việc sàng lọc bốn đa hình nucleotide đơn (SNPs) mục tiêu, bao gồm rs3807306, rs4728142, rs10954213 và rs11770589 được thực hiện trong máy khuếch đại vòng polymerase thời gian thực (PCR) bằng cách sử dụng bộ xét nghiệm phân loại gen TaqMan. Dữ liệu gen thu được sau đó được phân tích thống kê để liên hệ các SNP với sự khởi phát của CD trong quần thể Malaysia. Thí nghiệm phân loại gen và dữ liệu được xác thực một cách chọn lọc bằng cách khuếch đại PCR thông thường cho các vị trí SNP và giải trình tự DNA.

Kết quả

Đ allele G của rs3807306 là yếu tố nguy cơ cho CD (OR 2.3630, P = 0.00004), trong khi kiểu gen đồng hợp tử T có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh (OR 0.2038, P = 0.00004). Kiểu gen dị hợp tử A/G của rs10954213 có sự liên kết đáng kể với CD (OR 4.319, P = 0.0377). Mặt khác, kiểu gen đồng hợp tử A và kiểu gen dị hợp tử A/G của rs11770589 có ý nghĩa ở nhóm đối chứng (OR 0.4242, P = 0.0166) và bệnh nhân (OR 2.000, P = 0.0179), tương ứng. Trong phân tích phân tầng sắc tộc, kiểu gen đồng hợp tử A của rs11770589 có tác dụng bảo vệ ở người Ấn Độ (OR 0.1551, P = 0.0112).

Kết luận

Các đa hình gen IRF5 có thể đóng vai trò trong sự phát triển của CD ở quần thể Malaysia.

Viêm tụy cấp vô căn liên quan đến diễn tiến bệnh nặng hơn trong bệnh Crohn nhưng không trong bệnh viêm đại tràng loét Dịch bởi AI
BMC Gastroenterology - Tập 23 - Trang 1-7 - 2023
Bệnh nhân mắc bệnh viêm ruột (IBD), cho dù là bệnh Crohn (CD) hay viêm đại tràng loét (UC), có nguy cơ cao bị viêm tụy cấp. Giá trị tiên đoán của việc chẩn đoán viêm tụy cấp vô căn ở bệnh nhân IBD chưa được hiểu rõ. Một nghiên cứu hồi cứu về 56 bệnh nhân mắc IBD và viêm tụy cấp đã được thực hiện tại một trung tâm chuyên khoa từ năm 2011 đến 2020. Diễn tiến bệnh nặng được định nghĩa là (i) thay đổi sinh học, (ii) gia tăng liều sinh học hoặc (iii) các phẫu thuật liên quan đến IBD xảy ra trong vòng 1 năm sau khi chẩn đoán viêm tụy cấp. Mô hình hồi quy logistic đã xác định các mối liên hệ giữa các yếu tố liên quan và diễn tiến bệnh nặng. Các đặc điểm cơ bản giữa viêm tụy vô căn và các nguyên nhân khác của viêm tụy cấp, trong cả nhóm CD và UC, là tương tự nhau. Viêm tụy vô căn có liên quan đáng kể đến diễn tiến bệnh nặng trong CD (P = 0.04). Không có yếu tố gây nhiễu nào liên quan đến diễn tiến bệnh nặng trong CD. Tuy nhiên, viêm tụy vô căn không có liên quan đến diễn tiến bệnh nặng trong UC (P = 0.35). Việc chẩn đoán viêm tụy cấp vô căn có thể cung cấp một chỉ số tiên đoán cho diễn tiến bệnh nặng hơn trong CD. Không có mối liên hệ nào như vậy dường như tồn tại với UC. Theo hiểu biết của chúng tôi, đây là nghiên cứu đầu tiên xác định mối liên hệ và giá trị tiên đoán khả dĩ giữa viêm tụy vô căn và diễn tiến bệnh nặng hơn trong CD. Cần có nhiều nghiên cứu hơn với kích thước mẫu lớn hơn để xác nhận những phát hiện này, làm rõ hơn viêm tụy vô căn như một biểu hiện ngoài ruột của IBD và làm sáng tỏ một chiến lược lâm sàng để tối ưu hóa chăm sóc cho bệnh nhân mắc CD nặng và viêm tụy vô căn.
#bệnh viêm ruột #viêm tụy cấp #bệnh Crohn #bệnh viêm đại tràng loét #tỷ lệ mắc #diễn tiến bệnh
Khám Phá Vai Trò Của Việc Điều Chỉnh Tự Dị hóa Trong Bệnh Crohn: Từ Cơ Chế Di Truyền Đến Các Phương Pháp Điều Trị Tiềm Năng Dịch bởi AI
Advanced Biotechnology -
Tóm tắt

Tự dị hóa hoạt động như cơ chế phân hủy nội bào chính, giúp vận chuyển các bào quan bị hư hại và protein tự bào chất đến không bào lysosome để phân hủy. Bệnh Crohn, một rối loạn viêm mãn tính không rõ nguyên nhân của đường tiêu hóa, thể hiện ở nhiều vùng khác nhau của hệ thống tiêu hóa. Nghiên cứu gần đây cho thấy việc điều chỉnh tự dị hóa có thể là một hướng đi mới trong điều trị bệnh Crohn, và một số chất điều chỉnh tự dị hóa phân tử nhỏ đầy hứa hẹn đã được báo cáo như các lựa chọn điều trị. Trong bài đánh giá này, chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết về cách các đột biến trong các gen liên quan đến tự dị hóa hoạt động trong bệnh Crohn và tóm tắt các tác động điều chỉnh lên tự dị hóa của các loại thuốc phân tử nhỏ hiện đang được sử dụng để điều trị bệnh Crohn. Hơn nữa, chúng tôi cũng sẽ đi sâu vào tiềm năng điều trị của các tác nhân kích thích tự dị hóa phân tử nhỏ đối với bệnh Crohn, nhấn mạnh triển vọng phát triển trong lĩnh vực này. Chúng tôi nhằm mục đích làm nổi bật tầm quan trọng của việc điều chỉnh tự dị hóa trong bệnh Crohn, với hy vọng đóng góp vào sự phát triển của các phương pháp điều trị hiệu quả hơn có thể giảm bớt đau khổ của bệnh nhân và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ.

Bệnh u hạt mạn tính hiếm gặp: Báo cáo case bệnh
Bệnh u hạt mạn tính (Chronic Granulomatous Disease - CGD) là bệnh lý di truyền hiếm gặp, với biểu hiện lâm sàng là các đợt nhiễm trùng nặng, tái diễn gây ra bởi vi khuẩn và nấm, do khiếm khuyết khả năng thực bào của bạch cầu trung tính và đại thực bào. Chúng tôi mô tả một trường hợp bệnh nhân CGD với biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng giống với bệnh Crohn như tiêu chảy kéo dài, áp xe cạnh hậu môn và tiền sử có nhiều đợt nhiễm khuẩn nặng. Bệnh nhân luôn có số lượng bạch cầu máu ngoại vi cao. Xét nghiệm đánh giá chức năng bạch cầu hạt (test DHR) cho thấy chức năng bạch cầu hạt giảm nặng và được khẳng định bằng xét nghiệm giải trình tự gen phát hiện đột biến gen CYBB vị trí c.217C>T (p.Arg73Stp) trên NST giới tính X, quy định tổng hợp protein gp91phox là một cấu phần quan trọng của enzyme NADPH oxidase. Bệnh nhân được điều trị thành công với kháng sinh tĩnh mạch, điều trị dự phòng nhiễm khuẩn và nấm suốt đời. Đây là trường hợp bệnh hiếm và khó chẩn đoán. Triệu chứng gần giống với các bệnh lý nhiễm khuẩn khác đặc biệt là bệnh Crohn trong chuyên khoa tiêu hóa nên cần phân biệt và chẩn đoán để có phác đồ và kế hoạch điều trị phù hợp.
#bệnh u hạt mạn tính (CGD) #bệnh Crohn #nhiễm khuẩn tái diễn.
NỒNG ĐỘ CALPROTECTIN TRONG PHÂN Ở BỆNH NHÂN VIÊM RUỘT MẠN TÍNH VÀ HỘI CHỨNG RUỘT KÍCH THÍCH ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 545 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu: Phân tích mối liên quan giữa nồng độ calprotectin trong phân với một số đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán bệnh ở nhóm mắc IBD và IBS. Đối tượng và phương pháp: Gồm 52  bệnh nhân được chẩn đoán IBD và IBS vào khám, điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên trong thời gian nghiên cứu, đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ. Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Nồng độ Calprotectin trong phân ở bệnh nhân mắc IBS có trung vị là 25,70 (32,07)µg/g, ở bệnh nhân IBD là  87,00 (51,98)µg/g. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ Calprotectin với triệu chứng sốt, đi ngoài phân nhày máu, mức độ hoạt động bệnh UC theo thang điểm Mayo toàn phần. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ Calprotectin với tình trạng gầy sút cân, mức độ hoạt động bệnh CD theo thang điểm CDAI và thể bệnh IBS. Ngưỡng Calprotectin 52.25 µg/g được sử dụng để phân biệt IBD và IBS với độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 87.5% và 82.1%. Diện tích dưới đường cong là 0.920. Kết luận: Calprotectin trong phân là một dấu ấn viêm có mối liên quan với triệu chứng lâm sàng của bệnh, mức độ hoạt động bệnh và có thể góp phần phân biệt IBD và IBS.
#Viêm ruột mạn tính #Bệnh Crohn #Viêm loét đại trực tràng chảy máu #Hội chứng ruột kích thích #Calprotectin trong phân
Các biến thể CTLA4 có thể tương tác với yếu tố nguy cơ được phân phối bởi IL23R và NOD2 trong việc phát triển bệnh Crohn Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 - Trang 1-9 - 2010
Gen CTLA4 (kháng nguyên lympho T độc tế bào 4) liên quan đến một số bệnh lý miễn dịch và do vai trò điều hòa miễn dịch quan trọng của nó, nó cũng có thể được xem là ứng cử viên khả thi cho sự liên kết di truyền với các bệnh viêm ruột. Các nghiên cứu đã công bố trước đây không tìm thấy sự liên kết của CTLA4 với bệnh Crohn, nhưng một số cho thấy sự liên kết với các kiểu hình phụ. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá sự liên kết trong quần thể Czech, sử dụng một bộ marker đã được chỉ ra có liên quan đến các bệnh khác. Sáu đa dạng gen trong vùng CTLA4 đã được nghiên cứu trên 333 bệnh nhân mắc bệnh Crohn và 482 đối chứng khỏe mạnh không liên quan, tất cả đều là người Caucasian gốc Czech. Các kiểu gen của các SNP được xác định bằng phương pháp định gen TaqMan SNP. Các haplotype được tái cấu trúc bằng cách sử dụng thuật toán kỳ vọng-tối đa hóa, và sự liên kết của chúng với tình trạng được đánh giá bằng mô hình log-linear. Sau đó, các tương tác tiềm năng giữa các biến thể CTLA4 và các yếu tố di truyền khác được biết đến có thể gây ra độ nhạy cảm với bệnh đã được kiểm tra. Không tìm thấy sự liên kết thô nào với bệnh Crohn cho các biến thể CTLA4 được thử nghiệm dưới các mô hình log-additive hoặc dominant. Tuy nhiên, khi phân tầng theo yếu tố nguy cơ di truyền do các biến thể ở NOD2 (p.Leu1007fsX1008, rs5743293) hoặc IL23R (p.R381Q, rs11209026) gây ra, một sự liên kết tiêu cực đáng kể đã xuất hiện đối với các allele nhỏ của CTLA4 CT60 (rs3087243), JO31 (rs11571302), JO27-1 (rs11571297) polymorphisms. Sự liên kết tiêu cực với CTLA4 chỉ rõ ràng trong các lớp được xác định bởi sự hiện diện của các allele nhỏ tại NOD2 rs5743293 (trong trường hợp này CTLA4 CT60 A có OR = 0.43, 95%CI 0.19 - 0.95 cho sự hiện diện của CT60 A), hoặc IL23R rs11209026 (trong trường hợp này OR cho sự hiện diện của CT60 A là 0.23, 95%CI 0.07 - 0.71). Chúng tôi cũng quan sát thấy hiệu ứng này đối với haplotype bao gồm các allele nhỏ của ba marker CTLA4 liên kết chặt chẽ. Hơn nữa, haplotype này được liên kết với độ tuổi chẩn đoán trẻ hơn (OR 1.52, 95%CI 1.09 - 2.11, p = 0.014). Một hiệu ứng bảo vệ của haplotype CTLA4 đã được làm sáng tỏ sau khi phân tầng theo các biến thể nguy cơ trong các gen NOD2 và IL23R, và có thể chỉ ra tầm quan trọng sinh học của phân tử trong sinh bệnh học của bệnh.
#CTLA4 #bệnh Crohn #NOD2 #IL23R #di truyền học #viêm ruột
Ghép tế bào gốc huyết học tự thân ở bệnh nhân mắc bệnh Crohn nghiêm trọng và kháng trị. Dịch bởi AI
Blood - Tập 104 - Trang 1874 - 2004
Tóm tắt

Thông tin nền & Mục tiêu

Bệnh Crohn (CD) là một bệnh viêm có liên quan đến miễn dịch trong ống tiêu hóa. Về lý thuyết, việc xóa bỏ miễn dịch sau đó bằng cách ghép tế bào gốc huyết học tự thân (HSCT) có thể dẫn đến sự thuyên giảm bằng cách tái tạo lại một hệ thống miễn dịch mới.

Phương pháp

Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu giai đoạn I về HSCT trên 12 bệnh nhân mắc CD nặng. Các ứng viên có độ tuổi dưới 60 với chỉ số hoạt động bệnh Crohn (CDAI) từ 250–400 mặc dù đã điều trị thông thường bao gồm infliximab. Tế bào gốc từ máu ngoại vi được kích thích bằng cyclophosphamid và yếu tố kích thích tạo bạch cầu (G-CSF) và được làm giàu CD34+. Chế độ điều trị làm xóa bỏ miễn dịch bao gồm 200mg/kg cyclophosphamid và 90mg/kg globulin kháng tế bào lympho ngựa.

Kết quả

Thủ tục này được dung nạp tốt với những biến chứng giảm bạch cầu, sốt do giảm bạch cầu, và sốt, tiêu chảy, chán ăn, buồn nôn, nôn liên quan đến bệnh. Thời gian trung bình để bạch cầu trung tính và tiểu cầu bám dính là 9.5 ngày (phạm vi 8–11) và 9 ngày (phạm vi 9–18), tương ứng. Số lượng tế bào CD34+ và CD3+ được truyền vào lần lượt là 5.64 x 106/kg (phạm vi 1.73–9.93) và 0.59 x 104/kg (phạm vi 0.3–3.09). CDAI ban đầu trung bình là 291 (phạm vi 250–358). Các triệu chứng và CDAI đã cải thiện đáng kể (hình 1), và các phát hiện qua hình ảnh và nội soi đại tràng đã cải thiện dần theo tháng và năm sau HSCT. Mười trên mười hai bệnh nhân đã vào được trạng thái thuyên giảm kéo dài được xác định bởi CDAI ≤ 100. Sau thời gian theo dõi trung bình 17.5 tháng (phạm vi 6–37), chỉ có một bệnh nhân phát triển bệnh Crohn hoạt động trở lại sau 15 tháng kể từ khi ghép.

Kết luận

Ghép HSCT tự thân có thể được thực hiện một cách an toàn và có tác động tích cực rõ rệt đến hoạt động của CD. Cần có các nghiên cứu ngẫu nhiên để xác nhận tính hiệu quả của liệu pháp này.

Hình Hình

Tổng số: 50   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5